Tin tức

U tuyến giáp: Triệu chứng và Biểu hiện nhằm điều trị sớm

Tuyến giáp là một phần của hệ thống nội tiết, được tạo thành từ các tuyến tiết ra các hormone khác nhau vào máu. Tuyến giáp là một cơ quan (hoặc tuyến) hình con bướm nằm ở phía trước cổ, ngay dưới quả táo của Adam (thanh quản). Tuyến giáp, được tạo thành từ các thùy phải và trái kết nối với eo đất (hoặc “cầu), sản xuất và giải phóng các hormone tuyến giáp. Hormone tuyến giáp kiểm soát các chức năng như nhiệt độ cơ thể, tiêu hóa và các chức năng tim.

  1. U hay nhân tuyến giáp là gì?

U hay nhân tuyến giáp là tổn thương dạng khối khu trú nằm ở nhu mô tuyến giáp.

Đây là bệnh lý thường gặp, tỷ lệ mắc phải ở nữ cao gấp 5 lần so với nam giới. Độ tuổi mắc bệnh thường gặp nhất là từ 30 – 55 tuổi tuy nhiên trong một vài năm gần đây bệnh có xu hướng trẻ hoá.​​​​​

  1. Biểu hiện, triệu chứng của khối u hay nhân tuyến giáp.

Thông thường một khối u tuyến giáp khi nhỏ (dưới 1cm) thì bệnh nhân thường không có biểu hiện và không ảnh hưởng đến cuộc sống đời thường. Lúc này bệnh nhân chỉ có thể phát hiện được u tuyến giáp khi siêu âm.

Tuy nhiên khi khối u phát triển đến trên 1cm bệnh nhân có thể có những triệu chứng:

  • Phát hiện thấy cổ to, hoặc tự sờ thấy khối ở cổ.
  • Khàn tiếng.
  • Ho kéo dài.
  • Nuốt khó, nuốt nghẹn.
  • Một số trường hợp khối u có thể gây triệu chứng bệnh lý cường giáp: run tay, nhịp tim nhanh, tăng tiết mồ hôi, buồn nôn
  • Đối với khối u tuyến giáp ác tính, bệnh nhân có thể kèm theo: nổi hạch cổ, gầy sút cân.

3. Khi phát hiện khối u hay nhân tuyến giáp cần làm xét nghiệm gì.

Theo thống kê được thì khoảng 90% khối u tuyến giáp là lành tính. Tuy nhiên ngay cả khi xét nghiêm cho phép nghĩ tới khối u tuyến giáp là lành tính bạn cũng không nên chủ quan mà cần thường xuyên theo dõi, đi khám định kỳ và sử dụng thuốc theo đúng chỉ định của bác sĩ. Bướu giáp lành tính có thể bị biến chứng thành ác tính và dễ dàng dẫn tới ung thư tuyến giáp.

Hóc môn kích thích tuyến giáp (TSH)
Định lượng TSH là phương tiện tốt nhất để xác định có rối loạn chức năng tuyến giáp (xem bảng Kết quả của các xét nghiệm chức năng tuyến giáp trong các tình huống lâm sàng khác nhau). Các kết quả bình thường về cơ bản sẽ loại trừ cường giáp hoặc suy giáp, ngoại trừ những bệnh nhân có suy giáp trung ương do bệnh ở vùng dưới đồi hoặc bệnh lí tuyến yên ở rất hiếm các bệnh nhân có đề kháng tuyến yên với hormone tuyến giáp. TSH huyết thanh có thể thấp ở bệnh nhân có bệnh nặng. Mức TSH huyết thanh cũng xác định các hội chứng cường giáp cận lâm sàng (TSH huyết thanh thấp) và suy giáp cận lâm sàng (tăng TSH huyết thanh), cả hai đều được đặc trưng bởi T4, T4 tự do, T3, T3 tự do trong huyết thanh bình thường.

Đo thyroxine (T4)
T4 huyết thanh toàn phần là định lượng cả hormone tự do và hormone được mang bởi protein. Sự thay đổi về nồng độ các protein huyết tương gắn hormone tuyến giáp tạo ra những thay đổi tương ứng trong nồng độ T4 toàn phần, mặc dù nồng độ T4 tự do hoạt động sinh lí không thay đổi. Vì vậy, bệnh nhân có thể bình thường về mặt sinh lý nhưng có nồng độ T4 toàn phân bất thường. T4 tự do trong huyết thanh có thể được đo trực tiếp, tránh được những sai lầm trong việc diễn giải nồng độ T4 toàn phần. Chỉ số T4 tự do là một giá trị được tính toán hiệu chỉnh theo nồng độ T4 toàn phần do ảnh hưởng của việc thay đổi nồng độ các protein huyết thanh gắn hormone tuyến giáp và do đó ước tính nồng độ T4 tự do khi đã đo nồng độ T4 toàn phần. Tỷ lệ gắn hormone tuyến giáp hoặc sự hấp thu T4 nhựa được sử dụng để ước tính protein mang. Chỉ số T4 tự do có sẵn và so sánh tốt với phép đo định lượng trực tiếp T4 tự do.

Triiodothyronine (T3)
T3 huyết thanh toàn phần và T3 tự do đều có thể đo được. Do T3 gắn chặt chẽ với TBG (mặc dù ít hơn 10 lần so với T4), nồng độ T3 huyết thanh toàn phần bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi nồng độ TBG trong huyết thanh và do các thuốc ảnh hưởng đến sự gắn kết với TBG. Nồng độ T3 tự do trong huyết thanh cũng được đo bằng các phương pháp trực tiếp và gián tiếp (chỉ số T3 tự do) như đã được mô tả đối với nồng độ T4 và là chỉ số chính đánh giá ngộ độc giáp.

Globulin mang thyroxin
TBG có thể định lượng được. Nó tăng lên trong thời kì mang thai, do liệu pháp estrogen hoặc dùng thuốc ngừa thai, và trong giai đoạn cấp tính viêm gan nhiễm trùng. TBG cũng có thể tăng lên do bất thường liên kết X. T3 thường giảm trong các bệnh làm giảm tổng hợp protein gan, sử dụng steroid đồng hoá, và sử dụng corticosteroid quá nhiều. Liều lượng lớn các loại thuốc, như phenytoin và aspirin và các dẫn xuất của chúng, có thể tranh chấp với T4 tại các vị trí gắn trên TBG, làm giảm giả tạo tổng T4 huyết thanh.

Tự kháng thể đối với peroxidase tuyến giáp
Các tự kháng thể với peroxidase tuyến giáp có mặt ở hầu hết các bệnh nhân viêm tuyến giáp Hashimoto (một số trong đó cũng có tự kháng thể với thyroglobulin) và ở hầu hết bệnh nhân mắc Basedow. Những tự kháng thể này là dấu hiệu của bệnh tự miễn nhưng có thể không phải là nguyên nhân gây bệnh. Tuy nhiên, một loại tự kháng thể trực tiếp kháng thụ thể TSH trên tế bào nang tuyến giáp gây ra chứng cường giáp trong bệnh Basedow. Tự kháng thể kháng T4 và T3 có thể được tìm thấy ở bệnh nhân có bệnh lí tuyến giáp tự miễn và có thể ảnh hưởng đến đo nồng độ T4 và T3 nhưng hiếm khi có lâm sàng điển hình.

Thyroglobulin
Tuyến giáp là nguồn dự trữ thyroglobulin duy nhất, có thể phát hiện được dễ dàng trong huyết thanh của người khỏe mạnh và thường tăng ở những bệnh nhân có bướu giáp nhiễm độc hoặc không nhiễm độc. Việc sử dung nguyên tắc định lượng thyroglobulin huyết thanh là đánh giá bệnh nhân sau khi phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ hoặc gần toàn bộ (có hoặc không sử dụng điều trị bằng iodine- 131) cho các ung thư tuyến giáp khác nhau. Các giá trị thyroglobulin huyết thanh bình thường hoặc tăng cao cho thấy sự hiện diện của mô tuyến giáp bình thường hoặc mô giáp ung thư ở bệnh nhân dùng liều ức chế TSH l-thyroxine hoặc sau ngừng sử dụng l-thyroxine. Tuy nhiên, các kháng thể với thyroglobulin làm nhiễu sự đo lường thyroglobulin.

Sàng lọc rối loạn chức năng tuyến giáp
Khuyến cáo sàng lọc mỗi 5 năm bằng cách đo TSH huyết thanh cho tất cả nam giới ≥ 65 tuổi và cho tất cả phụ nữ ≥ 35 tuổi. Sàng lọc cũng được khuyến cáo cho tất cả trẻ sơ sinh và cho phụ nữ có thai. Đối với những người có các yếu tố nguy cơ có bệnh lí tuyến giáp, TSH huyết thanh nên được kiểm tra thường xuyên hơn. Tầm soát suy giáp chi phí hiệu quả tương tự tầm soát cường giáp, tăng cholesterol máu và ung thư vú. Test sàng lọc này có độ nhạy và độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán hai rối loạn phổ biến và nghiêm trọng này (suy giáp và cường giáp), cả hai rối loạn này đều có thể được điều trị hiệu quả. Do tỷ lệ suy giáp ở người tuổi cao nên việc sàng lọc hàng năm là hợp lý đối với những người > 70 tuổi.

Bệnh lý u hay nhân tuyến giáp hiện nay khá phổ biến, song nếu kiểm tra phát hiện sớm, định hướng đúng về khối u từ đó đưa ra kế hoạch theo dõi điều trị đúng cách sẽ đem lại chất lượng cuộc sống tốt hơn cho người bệnh.

4. Điều trị u tuyến giáp
Điều trị tuyến giáp lành tính. Đối với u tuyến giáp nhân lành tính bệnh nhân có thể yên tâm điều trị và thăm khám định kỳ để biết được chính xác tình trạng bệnh.

Nếu nhân giáp không phải là ung thư, các lựa chọn điều trị bao gồm:

Theo dõi không cần điều trị y khoa: Nếu sinh thiết cho thấy bạn có một nhân tuyến giáp không phải ung thư, bác sĩ có thể đề nghị chỉ cần theo dõi tình trạng của bạn. Điều này có nghĩa là bạn phải khám sức khỏe và kiểm tra chức năng tuyến giáp định kỳ. Bạn cũng có thể phải làm sinh thiết khác nếu u phát triển lớn hơn. Nếu nhân giáp lành tính không thay đổi, bạn có thể không bao giờ cần điều trị.

Liệu pháp hormone tuyến giáp: Nếu xét nghiệm chức năng tuyến giáp của bạn cho thấy tuyến của bạn không sản xuất đủ hormone tuyến giáp, bác sĩ có thể đề nghị liệu pháp hormone tuyến giáp.

Phẫu thuật: Nếu nó quá lớn khiến bạn khó thở hoặc khó nuốt bạn cần phẫu thuật. Các bác sĩ cũng có thể cân nhắc phẫu thuật cho những người có bướu đa nhân lớn, đặc biệt khi bướu cổ co thắt đường thở, thực quản hoặc mạch máu. Các nốt được chẩn đoán là không xác định hoặc nghi ngờ bằng sinh thiết cũng cần phẫu thuật cắt bỏ để có thể kiểm tra các dấu hiệu của ung thư.

Đốt sóng cao tần (RFA): Liệu pháp không cần phẫu thuật, không để lại sẹo và hạn chế tối đa biến chứng, người bệnh có thể ra viện ngay trong ngày.