Tin tức

Xét nghiệm đông máu: Activated partial thromboplastin (APTT)

Chất hoạt hóa APTT như kaolin, silica,… nên được chọn lọc để đảm bảo rằng phản ứng đủ nhạy để phát hiện suy giảm nhẹ các yếu tố VIII, IX, XI (mức 0,35- 0,4IU/ml). Không có chất hoạt hóa nào đủ nhạy để xác định suy giảm yếu tố ở mức độ rất nhẹ (mức 0,4-0,5IU/ml) và một APTT bình thường không loại trừ được những trường hợp suy giảm yếu tố nhẹ. Nếu phương pháp đo mật độ quang được sử dụng để theo dõi cục máu đông, APTT có thể bình thường giả tạo nếu huyết tương bệnh nhân đục (như tăng bilirubin máu, tăng lipid máu)

Xét nghiệm APTT là gì và khi nào cần thực hiện? | Vinmec

Dạng sóng hai pha: việc sử dụng phương pháp quang học cho phép cả định tính và định lượng mức ánh sáng truyền qua dựa trên dạng sóng thu được, không đơn thuần là một con số về thời gian đơn độc. Đánh giá phổ biến nhất của hình ảnh này là dạng sóng APTT hai pha gặp ở bệnh nhân DIC. Dạng sóng này do sự tạo thành một phức hợp đại phân tử giữa CRP và VLDL. Dạng sóng hai pha là nhạy và đặc hiệu trong DIC, mặc dù nó cũng nhìn thấy trong những tình trạng khác mà không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán DIC, dù sao thì những trường hợp này cho bằng chứng về một bệnh lý đông máu.

Suy giảm FXIII không làm kéo dài PT cũng như APTT. APTT có thể dùng để xác định kháng thể kháng PL (như LA) những những trường hợp này, thuốc thử sử dụng phải nhạy với LA và nồng độ thấp PL. Khi chọn PL để xét nghiệm APTT, điều quan trọng cần lựa chọn thuốc thử nhạy với suy giảm yếu tố. Một số LABO chọn thuốc thử APTT kém nhạy với LA (nếu có) để tránh nó ảnh hưởng đến các yếu tố. Trong những trường hợp như vậy, một thuốc thử thay thế cần được sử dụng nếu APTT được dùng để sàng lọc LA.

Ý nghĩa xét nghiệm prothrombin trong chẩn đoán và điều trị bệnh | Medlatec

APTT có thể làm cho xét nghiệm suy giảm yếu tố tăng hoặc giảm độ nhạy cũng như độ đặc hiệu phụ thuộc vào các thời gian ủ khác nhau. Ví dụ, một thời gian ủ ngắn khoảng 2 phút làm test rất nhạy trong xác định mức của các yếu tố tiếp xúc trong khi một thời gian ủ dài làm cho việc xác định các yếu tố này rất kém nhạy. Nhiều LABO ấn định thời gian ủ là 5 phút. Nếu nghi ngờ suy giảm yếu tố tiếp xúc, so sánh kết quả với thời gian ủ ngắn hơn và dài hơn có thể hữu ích. Một điều thú vị cần chú ý là mức độ kéo dài của APTT có thể gợi ý bất thường bên dưới. Ví dụ APTT kéo rất dài >120 giây thì phù hợp với suy giảm yếu tố tiếp xúc hơn là FVIII hay IX. Ngược lại, một APTT trong vùng 70-80 giây thì phù hợp để giữ chẩn đoán haemophilia A hoặc B thể nặng hơn là suy giảm yếu tố tiếp xúc. Điều này được minh họa qua ví dụ người A: FXII:C<1 IU/dL (các xét nghiệm khác bình thường), APTT 180s; người B: FVIII:C<1 IU/dL (những xét nghiệm khác bình thường), APTT 75s.

APTT thường được dùng để theo dõi bệnh nhân sử dụng heparin không phân đoạn(UFH). Tuy nhiên APTT rất nhạy với mức yếu tố VIII – một protein pha cấp. Nếu FVIII tăng thì APTT có thể ngắn lại một cách nhầm lẫn và không phản ánh đúng mức chống đông. Những trường hợp này, xét nghiệm anti-Xa nên được sử dụng để theo dõi dùng chống đông.

APTT là nền tảng cho xét nghiệm các yếu tố VIII, IX, XI và XII. Mặc dù yếu tố II, V, X cũng có thể xác định bằng hệ thống dựa vào APTT, nhưng nó chủ yếu dùng phương pháp dựa vào PT 1 giai đoạn. APTT được dùng để sàng lọc sự hiện diện của một số chất ức chế các yếu tố đông máu bao gồm FVIII và FIX. Ở bệnh nhân nhận được nồng độ rất cao UFH (như trong phẫu thuật bắt cầu tim phổi) APTT có thể không xác định được. Trong những trường hợp này, theo dõi tình trạng heparin hóa bằng một xét nghiệm khác – thường là thời gian cục máu đông hoạt hóa (ACT – Activated Clotting Time).

Xét nghiệm APTT được thực hiện khi nào? | Medlatec

Ở bệnh nhân sử dụng UFH và dùng APTT để theo dõi, rất quan trọng cần phải tách huyết tương khỏi các tế bào máu trong vòng 60 phút từ lúc thu thập. Yếu tố 4 tiểu cầu (PF4 – Platelet factor 4) tiết ra từ tiểu cầu sẽ trung hòa heparin và dẫn đến giảm giả tạo APTT và vì vậy không ước đoán chính xác mức độ heparin hóa. Máu được thu thập vào EDTA và được xử lý như một mẫu huyết tương chứa citrate, tương tự như chất ức chế yếu tố VIII. APTT kéo dài và thất bại để trở về bình thường khi làm mix test với huyết tương bình thường, mức FVIII:C giảm nhưng FIX và VWF bình thường.

APTT khác với PT, nó đo hoạt tính con đường đông máu nội sinh và con đường chung. Việc phân chia dòng thác đông máu thành ngoại sinh, nội sinh, và con đường chung là cổ điển và ít có giá trị trong in vivo, tuy nhiên nó vẫn hữu ích khi diễn giải các kết quả xét nghiệm ở LABO. Thuật ngữ Thromboplastin trong test này chỉ việc tạo thành một phức hợp từ nhiều yếu tố khác nhau trong huyết tương, có chức năng chuyển prothrombin thành thrombin và tiến tới tạo cục máu đông.

Thuật ngữ “Activated Partial Thromboplastin Time (APTT)” xuất phát từ dạng ban đầu của test này (giới thiệu năm 1953) trong đó chỉ có nồng độ phospholipid trong test được kiểm soát (chống lại nồng độ phospholipid và các chất hoạt hóa bề mặt) và tên gọi “partial thromboplastin” được dùng trong lúc chuẩn bị phospholipid, thứ mà có thể gia tốc cục máu đông nhưng không thể điều chỉnh thời gian đông máu bị kéo dài ở huyết tương bệnh nhân ưa chảy máu. Về bản chất, thuật ngữ “partial” có ý nghĩa rằng chỉ có sự hiện diện phospholipid mà không có TF.  

APTT còn được biết đến như là:

Thời gian đông máu Kaolin Cephalin (KCCT – Kaolin Cephalin Clotting Time), đừng nhầm nhẫn với thời gian đông máu Kaolin (KCT – Kaolin Clotting Time) là một test sàng lọc cho LA nhưng không chứa Cephalin. Cephalin là một chất thay thế phospholipid tiểu cầu. Thời gian Thromboplastin từng phần với Kaolin (PTTK – Partial Thromboplastin Time with Kaolin).

Xét nghiệm APTT phát hiện và chẩn đoán bệnh lý khó đông máu | Medlatec

Trong lịch sử, Kaolin được dùng như một chất hoạt hóa bề mặt. Nó gắn trực tiếp với FXII dẫn đến sự hoạt hóa trên bề mặt thành XIIa. XIIa cắt XI thành XIa nhưng trong tình trạng thiếu calcium, sự hoạt hóa những yếu tố kế tiếp không xảy ra. Kaolin hiếm khi được dùng khi APTT được đo tự động vì khả năng cản quang của nó làm khó khăn cho việc xác định điểm cuối bằng quang học, Những chất hoạt hóa phổ biến được dùng trong các hệ thống phân tích tự động gồm silica và ellagic acid ở kích thước micro. 

Cephalin là một chất thay thế phospholipid, nó thay cho phospholipid tiểu cầu trong test này (một điều cần nhớ rằng test này sử dụng huyết tương nghèo tiểu cầu vì vậy đòi hỏi phải bổ sung phospholipid để quá trình đông máu có thể xảy ra). Huyết tương nghèo tiểu cầu (PPP) được ủ ở 37 độ C, sau đó phospholipid (cephalin) và chất hoạt hóa tiếp xúc (như Kaolin, silica hoặc ellagic acid micro hóa) được cho vào, theo sau bởi calcium (tất cả đều được làm ấm 37 độ C trước). Thêm calcium bắt đầu khởi động đông máu và bắt đầu đo thời gian. APTT là thời gian tính từ lúc cho calcium vào đến khi tạo thành cục máu đông.

Hầu hết LABO hiện này đo APTT bằng phương pháp tự động, việc xác định điểm cuối dựa vào mức ánh sáng đi qua ở một ngưỡng nhất định. Sơ đồ sau cho thấy dòng thác đông máu và các yếu tố ảnh hưởng lên APTT. Thời gian đông đối với APTT nằm trong khoảng 27-35 giây. Tuy nhiên, giá trị này biến thiên giữa các LABO và phụ thuộc vào một số các yếu tố bao gồm phương pháp đo (cơ học hay tự động), loại chất hoạt hóa cũng như thời gian ủ.